TƯ VẤN HỖ TRỢ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP

Căn cứ xác lập quyền dân sự


Điều 8 Bộ luật dân sự 2015 quy định  về các căn cứ xác lập quyền dân sự
Quyền dân sự được xác lập từ các căn cứ sau đây:
1. Hợp đồng;
2. Hành vi pháp lý đơn phương;
3. Quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định của luật;
4. Kết quả của lao động, sản xuất, kinh doanh; kết quả của hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
5. Chiếm hữu tài sản;
6. Sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật;
7. Bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật;
8. Thực hiện công việc không có uỷ quyền;
9. Căn cứ khác do pháp luật quy định
luật sư tư vấn bào chữa
Luật sư tư vấn 
Hiểu sơ lược về các căn cứ xác lập quyền dân sự như sau:

     + Hợp đồng: là sự thỏa thuận của các chủ thể nhằm làm phát sinh, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền dân sự, đây là quan hệ dân sự phát sinh nhiều nhất và phổ biến nhất trên thực tế.    
     Ví dụ: hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán hàng hóa…
     + Hành vi pháp lý đơn phương: là sự thể hiện ý chí của một bên nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền về dân sự, đây là đặc điểm này là điểm phân biệt giữa hành vi pháp lý đơn phương và hợp đồng. Ví dụ: di chúc của người có tài sản để lại cho người được hưởng di sản ….
    + Quyết định của Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định của luật: đây là quyền năng được Nhà nước cho phép và tất cả các chủ thể trong giao dịch dân sự phải có nghĩa vụ chấp hành.
     + Kết quả của lao động, sản xuất, kinh doanh; kết quả của hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ: người lao động, sản xuất, kinh doanh sẽ được hưởng thành quả do mình bỏ công sức tạo ra, tuy nhiên, các hoạt động này phải hợp pháp và được pháp luật thừa nhận thì mới có căn cứ xác lập quyền dân sự. Có một đặc điểm nữa là, đối với hoạt động sáng tạo ra đối tượng sở hữu trí tuệ cũng là căn cứ pháp lý để xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật dân sự.
     + Chiếm hữu tài sản: quyền chiếm hữu có thể hiểu là một quyền năng của chủ sở hữu tài sản, nếu các chủ thể khác muốn bác bỏ việc chiếm hữu không ngay tình thì có nghĩa vụ chứng minh.
     + Bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật: người gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường, trách nhiệm bồi thường ở đây bao gồm bồi thường trong hợp đồng và bồi thường ngoài hợp đồng.
     + Thực hiện công việc không có ủy quyền: thông thường các chủ thể chỉ thực hiện công việc của người khác khi được ủy quyền, tuy nhiên, trên thực tế có khi vì lợi ích của người có công việc thì chủ thể khác buộc phải làm công việc không được ủy quyền và sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người thực hiện công việc và cả người có công việc được thực hiện. Lúc này, các bên phải có trách nhiệm với nhau về việc thanh toán chi phí bỏ ra để thực hiện công việc, thanh toán tiền công thực hiện công việc… theo các quy định của BLDS năm 2015.
     + Do mang tính liệt kê nên ở khoản 9 điều luật đã quy định Căn cứ khác do pháp luật quy định để dự phòng và mỡ rộng các trường hợp phát sinh trong thực tiễn đời sống hoặc doa các văn bản quy phạm pháp luật khác điều chỉnh.
     Như vậy, có 09 trường hợp quyền dân sự được ghi nhận trong BLDS, trong đó việc ghi nhận quyền chiếm hữu tài sản là một trong những đúc kết từ thực tiễn thi hành BLDS năm 2005, có ý nghĩa trong đời sống xã hội. Bởi vì, việc ghi nhận này sẽ bảo vệ người đang thực tiễn chiếm hữu được suy đoán là chiếm hữu ngay tình, sẽ được pháp luật bảo vệ trước sự xâm phạm của các chủ sỡ hữu khác, đồng nghĩa, với việc các chủ thể khác phải có nghĩa vụ chứng minh chứ không phải người đang chiếm hữu có nghĩa vụ chứng minh như tinh thần của BLDS năm 2005 chỉ ghi nhận những trường hợp chiếm hữu có căn cứ pháp luật mới được bảo vệ.


Không có nhận xét nào

Được tạo bởi Blogger.